
* Tiềm năng nguồn tài nguyên biển
Thành phố Hải Phòng thuộc phía Tây vịnh Bắc bộ có vị trí địa lý đặc biệt, với nguồn tài nguyên thiên nhiên vừa có giá trị khai thác, sử dụng, vừa có giá trị bảo tồn, bảo vệ tạo ra lợi thế phát triển của thành phố theo định hướng phát triển bền vững. Với 8/15, quận, huyện tiếp giáp với biển và 2 huyện đảo Cát Hải và Bạch Long Vĩ, nên Hải Phòng có nguồn tài nguyên biển khá phong phú, đặc biệt là các hệ sinh thái biển có giá trị cao đều như rừng ngập mặn, san hô, cỏ biển, rạn đá, tùng áng, bãi triều, cửa sông và vùng đáy biển rộng lớn, với diện tích khoảng 4.000 km2. Ngoài ra, Hải phòng còn có các ngư trường truyền thống có các loài hải sản dồi dào như Bạch Long Vỹ, Cát Bà - Long Châu. Nguồn năng lượng biển như gió, năng lượng mặt trời, tiềm năng dầu khí cũng đang được thăm dò.
Trên cơ sở đó, Hải Phòng đã xác định 6 ngành và lĩnh vực kinh tế biển phát triển đến năm 2020. Đó là phát triển hệ thống cảng, dịch vụ cảng và vận tải biển; phát triển công nghiệp biển, các khu kinh tế, khu công nghiệp ven biển; kinh tế thủy sản; du lịch biển; khoa học công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực biển; phát triển các huyện đảo. Việc tăng cường khai thác và sử dụng bền vững tài nguyên thiên nhiên biển, đảo đã góp phần quan trọng vào sự phát triển của thành phố. Vị thế tài nguyên được khai thác và sử dụng ở tất cả các giá trị, như vị thế tự nhiên, kinh tế và chính trị, không gian biển. Các hệ sinh thái cửa sông ven biển, bãi triều và cả một phần rừng ngập mặn, cỏ biển được khai thác phục vụ nuôi trồng hải sản, mở rộng và phát triển cảng biển và các khu công nghiệp, luồng hàng hải, đô thị hóa. Các hệ sinh thái san hô, vụng vịnh, tùng áng được sử dụng tổng hợp cho nhiều hoạt động phát triển du lịch, dịch vụ nghề cá...
Có thể nói, tài nguyên thiên nhiên biển và vùng bờ biển Hải Phòng đã và đang được khai thác, sử dụng ở quy mô ngày càng rộng lớn, cường độ ngày càng cao góp phần tích cực cho phát triển kinh tế - xã hội của thành phố, đảm bảo an ninh, chủ quyền lãnh hải, lợi ích quốc gia trên biển và hòa nhập quốc tế.
* Bất cập trong khai thác, sử dụng tài nguyên biển
Thực tế, trong khai thác sử dụng bền vững tài nguyên biển nảy sinh một số vấn đề bất cập, đó là suy giảm không gian các hệ sinh thái tự nhiên như rừng ngập mặn, bãi triều, cỏ biển; suy giảm đa dạng sinh học do mất không gian sống và môi trường bị thay đổi; suy giảm nguồn lợi biển và các loài quý hiếm có giá trị kinh tế và bảo tồn cao; tài nguyên nước mặt suy thoái do chất lượng kém.
Nguyên nhân do thiếu cơ sở khoa học và quy hoạch sử dụng hợp lý tài nguyên, hiệu quả sử dụng đất và đất ngập nước không cao. Thiếu quy hoạch vùng và liên kết vùng, mâu thuẫn lợi ích trong sử dụng tài nguyên; lãng phí trong sử dụng tài nguyên; tài nguyên nước đang bị đe dọa do nhiễm bẩn, nhiễm mặn và nguy cơ dâng cao mực nước biển, tài nguyên đất ngập nước, tài nguyên sinh vật bị hủy hoại, suy thoái và cạn kiệt. Việc khai thác vật liệu xây dựng ở vùng bờ và bãi biển đã gây tác động tiêu cực về môi trường như ô nhiễm, biến dạng cảnh quan và xói lở bờ biển. Du lịch biển tuy đã phát triển nhưng hiệu quả còn thấp, gây tác động môi trường và làm mất đi nhiều giá trị tự nhiên. Tài nguyên vị thế đã được coi trọng nhưng các vấn đề này còn là ý chí hơn là hoạt động thực tiễn. Xuất hiện một số bất cập như tính hợp lý của hệ thống cảng biển do phải chuyển tuyến luồng hàng hải vào cảng, mở rộng và xây dựng mới cảng biển gây tác động đến môi trường và tài nguyên biển. Tài nguyên nhân văn biển đảo chưa được chú trọng khai thác, sử dụng để giảm áp lực khai thác tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường biển đảo.
Các hoạt động phát triển kinh tế ở vùng biển đảo đã gây nên những hệ lụy về môi trường. Nồng độ các chất gây ô nhiễm có xu hướng ngày càng tăng. Sự gia tăng này thể hiện rõ hơn trong môi trường nước, với các chỉ số như các chất hữu cơ, nitrate, dầu mỡ, TSS đều vượt tiêu chuẩn cho phép. Đặc biệt là đối với các chất gây ô nhiễm có độc tính bền vững trong môi trường biển như các kim loại nặng, các hợp chất hữu cơ bền (POPs). Tuy phần lớn diện tích ven bờ của các đảo chưa bị ô nhiễm xác định theo các yếu tố gây ô nhiễm, nhưng ô nhiễm cục bộ theo không gian, thời gian và theo một số yếu tố riêng lẻ khá phổ biến, nhiều khi nghiêm trọng ở mức báo động vì có khả năng gây tác động xấu đến môi trường, sức khỏe cộng đồng.
Điển hình là ô nhiễm các chất hữu cơ ở môi trường ngư dân và các bến cá ven biển.... Ô nhiễm dầu ở các vùng nước cảng, các tuyến hàng hải, các vùng neo trú tàu cá, các khu vực cung cấp nhiên liệu và ô nhiễm kim loại nặng tại các vùng liên quan đến sản xuất công nghiệp. Một số nơi ô nhiễm cục bộ phát triển thành các điểm nóng ô nhiễm và trở thành nơi tích luỹ - phát tán ô nhiễm cho vùng nước ven bờ. Tại các vùng cửa sông, nơi đáng ra có khả năng phân tán, tự làm sạch môi trường rất tốt, ví dụ như vùng cửa sông Bạch Đằng thì mức độ ô nhiễm rất cao.
Ngoài ra, nguy cơ bùng phát thủy triều đỏ và nạn tảo độc rất cao và đã từng được ghi nhận tại một số nơi. Cụ thể vào tháng 7/1998 ở khu vực cảng Cát Bà; tháng 2 và 7/1999 vùng biển Đồ Sơn; tháng 4/2009 ở vùng biển Cát Bà. Cùng với sự phát triển công nghiệp và tăng trưởng kinh tế, các chất ô nhiễm có độc tính thuộc nhóm hữu cơ bền bước đầu nhận thấy có sự tích luỹ trong trầm tích và cơ thể sinh vật, gây nguy hại lâu dài cho an toàn thực phẩm và sức khoẻ cộng đồng, nhưng chưa được quan tâm đánh giá đúng mức.
* Những giải pháp khắc phục
Để khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên và bảo vệ môi trường biển, Hải Phòng đã triển khai một số giải pháp khả thi, nhất là việc xây dựng các chính sách, triển khai một số chương trình, chú trọng hợp tác quốc tế như thành lập Khu bảo tồn biển Bạch Long Vỹ, Khu Dự trữ sinh quyển Cát Bà. Đồng thời thực hiện đánh giá định kỳ về nguồn tài nguyên biển đảo và tình hình khai thác, sử dụng của thành phố. Quy hoạch sử dụng tài nguyên có tính liên vùng, tỉnh, thành phố, phát triển và áp dụng hệ thống quản lý tổng hợp và thống nhất vùng bờ biển, giảm mâu thuẫn lợi ích trong sử dụng và khai thác tài nguyên.
Bên cạnh đó, Hải Phòng khuyến khích việc phát hiện, sử dụng các giá trị của các dạng tài nguyên, bao gồm tài nguyên thiên nhiên và nhân văn để đa dạng hóa nguồn tài nguyên, tránh gây sức ép lên một vài loại hình tài nguyên sử dụng cho phát triển kinh tế - xã hội theo hướng phát triển bền vững. Tăng cường hiệu lực thi hành pháp luật, đặc biệt khuyến khích các ngành, đơn vị khai thác sử dụng tài nguyên áp dụng hệ thống quản lý môi trường để giảm thiểu ô nhiễm môi trường trong hoạt động phát triển kinh tế. Xây dựng chính sách khuyến khích đầu tư công nghệ mới sạch, thân thiện môi trường trong khai thác sử dụng tài nguyên, nâng cao giá trị tài nguyên thông qua khuyến khích chế biến, tái chế, tái sử dụng hiệu quả tài nguyên. Tuyên truyền, nâng cao nhận thức về khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên và bảo vệ môi trường biển đảo.
Hải Phòng đã xây dựng và triển khai các nhiệm vụ trọng điểm về phát triển kinh tế biển, như thực hiện điều tra cơ bản về tài nguyên môi trường biển đảo, đánh giá nguồn năng lượng xanh trên biển, xây dựng tiêu chí đảo xanh. Quy hoạch phát triển cảng biển và du lịch sinh thái biển và khai thác khoáng sản vùng ven biển. Xây dựng kế hoạch quản lý tài nguyên, môi trường vùng ven biển hiệu quả, hợp lý, phù hợp với đặc tính sinh thái của từng vùng. Bảo vệ các vùng đất ngập nước, khôi phục phát triển rừng phòng hộ, rừng ngập mặn ven biển, nuôi trồng thủy sản, chuyển đổi sinh kế cho người dân. Kết hợp hài hòa giữa bảo tồn với khai thác sử dụng hợp lý đa dạng sinh học biển và xóa đói giảm nghèo. Thiết lập các khu bảo tồn biển Bạch Long Vỹ và Cát Bà, mô hình Phòng thí nghiệm học tập cho sự phát triển bền vững Cát Bà. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong bảo vệ môi trường biển đảo, trong đó đáng chú ý là các dự án hợp tác với Pháp, Bỉ, Úc, các tổ chức quốc tế như IUCN, UNESCO và đăng cai tổ chức các sự kiện về môi trường biển và đại dương.
Trần Đình Lân